Tiền lệ lịch sử Tòa_án_Nürnberg

Thông thường, một hiệp ước hòa bình giữa các cường quốc được sử dụng để phán xét và giải quyết các mâu thuẫn và thiệt hại, trao chiến lợi phẩm cho kẻ chiến thắng và buộc kẻ bại trận bồi thường. Để chấm dứt xung đột, một hiệp ước hòa bình luôn đi kèm với một điều khoản ân xá nghiêm cấm việc khơi dậy hoặc tố cáo những tội ác gây ra trong chiến tranh. Một điều khoản ân xá như thế đã xuất hiện từ thời Hy Lạp cổ đại: "Sau khi Ba mươi Bạo chúa bị đuổi khỏi Athens, Thrasybulus đề ra đạo luật được dân Athens chấp thuận rằng cả hai bên sẽ quên hết mọi thứ diễn ra trong chiến tranh: bắt đầu từ thời điểm này thuật ngữ ân xá được sử dụng."[6] Những điều khoản ân xá thế này vẫn còn đến năm 1962 trong Hiệp định Évian kết thúc cuộc chiến tranh Algérie.

Chấm dứt một cuộc chiến tranh bằng cách thành lập một tòa án và quy trình pháp lý xét xử lãnh đạo của những nước thua cuộc là một hành động chưa từng có tiền lệ trong lịch sử. Napoleon là một trong những lãnh đạo đầu tiên mà việc xét xử hình sự bởi một tòa án quốc tế được đưa ra:

Đặc biệt phổ biến ở nước Anh, ý tưởng về việc xét xử bởi các đại diện của tất cả quốc gia ở châu Âu, có điều gì đó hấp dẫn; đó sẽ là phán xét vĩ đại và quyền lực nhất lịch sử thế giới; ta có thể phát triển những nguyên tắc cho luật pháp quốc tế... và dù mọi chuyện như thế nào, đó sẽ là một dấu mốc lớn trong lịch sử

— Joseph de Maistre

Một trong những tòa án có thẩm quyền đa quốc gia xuất hiện từ năm 1899, khi Tòa án Trọng tài thường trực được thành lập và tồn tại đến ngày nay, tuy nhiên không được công nhận thẩm quyền hình sự.

Ý tưởng về một tòa án hình sự quốc tế có từ Chiến tranh thế giới thứ nhất và bắt nguồn từ những hiệp định chấm dứt nó:

  • Điều 227 của Hòa ước Versailles bao gồm bản cáo trạng của Hoàng đế Wilhelm II: "một tội ác chống lại đạo đức quốc tế và sự tôn nghiêm của các hiệp ước". Nó cũng đặt ra nền tảng cho một tòa án đặc biệt bao gồm đại diện của Mỹ, Anh, Pháp, Ý và Nhật Bản. Điều 228 yêu cầu xét xử các tội phạm chiến tranh, được thực hiện bởi chính phủ Đức mới, và phải dẫn độ khi có yêu cầu.

Tuy nhiên những quy định không thể được áp dụng trong thực tiễn:

  • Chính phủ Hà Lan, nơi Wilhelm II ẩn náu, từ chối thực hiện nó do tính hồi tố của nó. Phiên tòa vì thế không được diễn ra.[7].
  • Cộng hòa Weimar giải thích cho quân Đồng Minh rằng việc dẫn độ sẽ gây nên một cuộc chống đối toàn diện, làm suy yếu tính bền vững của chính phủ. Vì thế, việc xét xử các tội phạm chiến tranh, hay ít nhất một phần của nó, diễn ra tại Đức trước Reichsgericht (Tòa Dân sự Tối cao) tại Leipzig từ tháng 5 năm 1921 đến tháng 12 năm 1922. Kết quả nằm ngoài dự đoán: trong số 901 bị cáo, 888 người được tha bổng. 13 người còn lại nhận những bản án nhẹ nhưng cũng không phải thực hiện chúng.[8]
  • Hòa ước Sèvres không được phê chuẩn; Hiệp ước Lausanne thay thế nó không đưa ra những quy định về Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ.

Năm 1922, Toà án Thường trực Công lý Quốc tế được thành lập. Không khác những tòa án trước đó, nó không có thẩm quyền hình sự và tan rã năm 1946 với sự thành lập của Liên Hiệp Quốc.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Tòa_án_Nürnberg http://www.allacademic.com//meta/p_mla_apa_researc... http://www.fredautley.com/nuremberg.htm http://www.highbeam.com/doc/1P2-3758012.html http://www.huffingtonpost.com/2014/08/24/henry-ger... http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,8... http://www.versobooks.com/books/366-victors-justic... http://www.memorium-nuremberg.de/exhibition/visito... http://artemis.austincollege.edu/acad/history/htoo... http://www.fredonia.edu/org/jacksonsymposium/photo... http://nuremberg.law.harvard.edu/php/docs_swi.php?...